Không có gì bất ngờ khi nói rằng lối sống, thói quen đi ngủ, thuốc men và các vấn đề sức khỏe tâm thần đều góp phần gây ra chứng mất ngủ. Tuy nhiên, các nghiên cứu mới đây còn cho thấy rằng chứng mất ngủ còn có thể là do di truyền. Hơn nữa, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng một số bệnh mất ngủ hiếm gặp có liên quan đến đột biến gen.
Trong bài viết này, chúng ta sẽ giải đáp thắc mắc cho câu hỏi “Mất ngủ có di truyền không?” đồng thời tìm hiểu cách giúp ngăn ngừa tình trạng này để ngủ ngon hơn mỗi đêm
Nội Dung Chính
1. Mất ngủ có di truyền không?
Trước đây, các nhà khoa học đã phát hiện ra rằng các vấn đề về giấc ngủ như chứng mất ngủ một phần là do di truyền nhưng gần đây họ mới tìm ra nguyên nhân di truyền cụ thể.
1 nghiên cứu năm 2018 , đã phân tích DNA của hơn 33.000 binh sĩ từ Châu Âu, Châu Phi và gốc Latinh. Họ đã phát hiện ra mối liên hệ di truyền quan trọng giữa chứng mất ngủ và bệnh tiểu đường. Riêng ở những người lính gốc châu Âu, có mối liên hệ di truyền giữa chứng mất ngủ và trầm cảm.
Tiến sĩ Murray B. Stein, người đã dẫn đầu cuộc nghiên cứu này cho biết. “Có mối tương quan di truyền giữa rối loạn mất ngủ và các rối loạn tâm thần khác, chẳng hạn như trầm cảm nặng và các rối loạn thể chất như bệnh tiểu đường loại 2. Điều này cho cho thấy có 1 cơ chế di truyền chung.”
1.1. Biến thể di truyền
Đi sâu hơn vào dữ liệu DNA, nhóm nghiên cứu đã tìm thấy các vấn đề về giấc ngủ như chứng mất ngủ một phần là do di truyềnvà nhiễm sắc thể 9. Hơn nữa, 1 biến thể trên nhiễm sắc thể 7 tương tự như gen AUTS2, được liên kết đến thói quen tiêu thụ rượu.
Stein cho biết thêm rằng các biến thể nằm trong các khu vực đã được kết nối với giấc ngủ và nhịp sinh học, là một phần của đồng hồ tự nhiên bên trong điều khiển chu kỳ đánh thức giấc ngủ. Một số biến thể này có liên quan đến giấc ngủ và nhịp sinh học, góp phần tăng nguy cơ mắc rối loạn tâm thần và các vấn đề về chuyển hóa có yếu tố di truyền.
1.2. Mất ngủ gây tử vong thể gia đình
Chứng mất ngủ gây tử vong thể gia đình là một chứng rối loạn thần kinh di truyền khiến một người biểu hiện các triệu chứng mất ngủ gia tăng và cuối cùng mất khả năng duy trì giấc ngủ.
Các triệu chứng khác của chứng mất ngủ gây tử vong bao gồm các vấn đề về tập trung, mất trí nhớ ngắn hạn, sụt cân nghiêm trọng, phối hợp kém, huyết áp cao, nhiệt độ cơ thể không ổn định, đổ mồ hôi và chảy nước mắt quá nhiều. Đây là một căn bệnh hiếm gặp, và có thể gây tử vong cho những người mắc phải.
Một đột biến trong gen PRNP là nguyên nhân gây ra chứng mất ngủ thể gia đình nghiêm trọng. Gen PRNP cung cấp thông tin mã hóa để sản xuất protein prion trong não và khi gen này bị đột biến, nó có thể dẫn đến các protein prion bất thường. Sự tích tụ của các prion dị dạng này có thể gây ra sự phá vỡ các tế bào thần kinh, đây là gốc rễ của căn bệnh này.
Sự phá vỡ của các tế bào thần kinh gây ra một phản ứng dây chuyền làm suy yếu hệ thống thần kinh tự chủ – 1 phần của cơ thể chịu trách nhiệm về các chức năng không tự chủ như thở, nhịp tim và đổ mồ hôi.
Hơn nữa, sự suy giảm tế bào thần kinh tập trung ở vùng não đồi thị, là khu vực chịu trách nhiệm duy trì chu kỳ thức-ngủ tự nhiên của cơ thể. Do đó, việc mất đi các tế bào thần kinh ở đồi thị có thể gây ra triệu chứng mất ngủ.
1.3. Mất ngủ gây tử vong thể rời rạc
Giống như chứng mất ngủ gây tử vong thể gia đình, chứng mất ngủ gây tử vong thể rời rạc là một bệnh do đột biến nhưng đây là dạng đột biến tự phát của protein prion chứ không phải do bất thường ở gen PRNP. Tuy nhiên, nó không di truyền qua các thành viên trong gia đình.
2. Rối loạn giấc ngủ khác có di truyền không?
Mất ngủ không phải là chứng rối loạn giấc ngủ duy nhất có liên quan đến di truyền; các nhà nghiên cứu cho biết di truyền học đóng một vai trò trong các chứng rối loạn giấc ngủ khác. Trong một số trường hợp, rối loạn có thể là kết quả của sự kết hợp của các thành phần môi trường và các yếu tố di truyền chung.
2.1. Chứng mất ngủ vô căn
Vô căn là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả một tình trạng hoặc căn bệnh mà nguyên nhân không rõ.
Những người mắc chứng mất ngủ vô căn cảm thấy buồn ngủ ban ngày quá mức (EDS) và thường có triệu chứng ít nhất một tháng trước khi chẩn đoán. Các nhà nghiên cứu ước tính rằng chứng mất ngủ vô căn có mối liên quan đến 1 kiểu gen đột biến, cả đàn ông và phụ nữ đều có khả năng thừa hưởng hoặc truyền lại những đột biến này cho thế hệ sau.
2.2. Chứng ngủ rũ
Chứng ngủ rũ là một bệnh mãn tính liên quan đến sự mệt mỏi tột độ vào ban ngày. Các triệu chứng chính khác của chứng ngủ rũ bao gồm cataplexy, tê liệt khi ngủ và ảo giác.
Cataplexy là khi cá nhân bị mất trương lực cơ đột ngột khi đang thức. Mặt khác, tê liệt khi ngủ là khi một người đột nhiên thức dậy sau giấc ngủ hoặc đang ngủ thì phát hiện ra rằng họ không thể cử động hoặc nói được. Các chuyên gia cho biết ảo giác có thể đi kèm với tình trạng tê liệt khi ngủ và chúng thường xảy ra khi người đó đang ngủ gật hoặc khi thức dậy.
Theo các nhà nghiên cứu, nếu một người thân mắc chứng ngủ rũ, bạn có nguy cơ mắc bệnh này cao hơn so với những người còn lại. Tuy nhiên, xác suất đó vẫn chỉ từ 1 đến 2%.
Cụ thể hơn, các phát hiện cho thấy chứng ngủ rũ có liên quan chặt chẽ với kháng nguyên bạch cầu người (HLA) DR2/DQW1. Hệ thống HLA được liên kết với hệ thống miễn dịch và được quy định bởi các gen từ nhiễm sắc thể 6.
2.3. Hội chứng chân không yên (RLS)
Hội chứng chân không yên là cảm giác thôi thúc cử động chân không kiểm soát được và tình trạng này thường trở nên tồi tệ hơn vào ban đêm, đặc biệt là khi ngủi. RLS thường xuyên gây gián đoạn giấc ngủ ở những người mắc bệnh này. Theo các báo cáo, ước tính có khoảng 5-10% người lớn và 2-4% trẻ em ở Hoa Kỳ mắc phải tình trạng này, khiến nó trở thành một trong những chứng rối loạn liên quan đến giấc ngủ phổ biến hàng đầu.
Các chuyên gia cho biết mọi người có nguy cơ mắc RLS cao gấp 3 đến 6 lần nếu có người thân mắc bệnh này và tin rằng chứng rối loạn này có thể tuân theo kiểu di truyền trội trên nhiễm sắc thể thường.
2.4. Mộng du
Chứng mất ngủ được mô tả là những hành vi bất thường vào ban đêm như nói mớ khi ngủ, mộng du, tê liệt khi ngủ và kinh hoàng ban đêm. Mộng du – còn được gọi là du miễn – có thể liên quan đến yếu tố di truyền học.
Mộng du thường xảy ra trong giai đoạn ngủ sâu non-REM. Các chuyên gia cho biết những đứa trẻ có 1 hoặc cả 2 cha mẹ bị mộng du có 45% khả năng mắc chứng này, nguy cơ này còn 23% so với những đứa trẻ có cha mẹ không bị mộng du. Cụ thể hơn, chứng mộng du có liên quan đến gen HLA O501 và DQ-B1.
2.5. Ngưng thở khi ngủ
Ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn (OSA) là khi những khoảng ngưng thở trong khi đang ngủ do tắc nghẽn ở đường hô hấp trên. Cụ thể, các cơ cổ họng kiểm soát các khu vực như lưỡi và vòm miệng (các khu vực này sẽ mềm và thư giãn khi bạn đang ngủ). Khi điều này xảy ra, đường thở sẽ bị thu hẹp hoặc đóng hoàn toàn, có thể khiến bạn tạm thời ngừng thở.
Các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra một thuộc tính di truyền có thể là nguyên nhân gây ra OSA. Một số nghiên cứu được thực hiện ở Nhật Bản và Hoa Kỳ đã tìm thấy mối tương quan giữa HLA-DR2 và chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn. Cụ thể, trong nghiên cứu, nhóm đã phát hiện rằng những người mắc chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn có tần số chuỗi HLA-DR2 cao hơn.
Trên đây là lời giải đáp cho thắc mắc mất ngủ có di truyền không. Hy vọng bài viết đã thỏa mãn bộ óc tò mò của bạn rồi nhé!
Nguồn tham khảo: https://www.sleepadvisor.org/is-insomnia-genetic/